Thứ Tư, 3 tháng 10, 2012


ây Đinh lăng

Đinh lăng hay còn gọi là cây Gỏi cá, có tên khoa học: Polyscias fruticosa L. Harms, họ Ngũ gia bì (ARLIACEAE)
Đinh lăng là cây gỗ nhỏ, cao 0,8 - 1,5m, không lông, không gai. Lá kép 3 lần lông chim, dài 20 - 40cm. Lá chét có cuống nhỏ mảnh khảnh dài 3 - 15mm, dạng màng, khía răng không đều, phần nhiều khía hay chia thuỳ, có mũi nhọn, dài 3 - 10cm, rộng 0,6 - 4cm. Hoa nhỏ thành cờ, tán ngắn dài 7 - 18cm. Quả dẹt màu trắng bạc, dài và rộng khoảng 3 - 4mm, dày 1mm, đội các vòi còn lại. Cây ra hoa tháng 4 - 7.

Trong rễ có glucozit, alcaloit, saponin triterpen, flavonoit tanin và 13 loại axit amin trong đó có lyzin, xystein, methionin là những axit amin không thể thay thế được. Vitamin B1 trong thân và lá cũng có nhưng ít hơn.

Qua nghiên cứu và thử nghiệm, Viện Y học quân sự đã tìm được  từ cây Đinh lăng những tính chất của Nhân sâm: Rễ Đinh lăng có tác dụng làm tăng cường sức dẻo dai và sức đề kháng của cơ thể, chống hiện tượng mệt mỏi, giúp ăn ngủ ngon, tăng khả năng lao động, lên cân và chống độc.

Rễ Đinh lăng được thu hái vào mùa thu, đông ở những cây đã trồng từ 3 năm trở lên, rễ mềm có nhiều hoạt chất. Rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, rễ to chỉ dùng vỏ. Thái nhỏ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng để nguyên hoặc tẩm rượu Gừng 5%, sao qua rồi tẩm 5% Mật ong, sao thơm. Dược liệu có vị ngọt, đắng, mùi thơm, tính mát, không độc. Được dùng dưới những dạng sau:

Thuốc ngâm rượu: Rễ Đinh lăng khô, không sao tẩm 100g, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30 – 35 độ trong 7 - 10 ngày. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 6 - 10ml, uống trước bữa ăn nửa giờ.

Thuốc bột và thuốc viên: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 100g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5 - 1g hoặc trộn bột với Mật ong vừa đủ, làm thành viên, mỗi viên 0,25 - 0,5g. Ngày uống 2 - 4 viên, chia làm 2 lần.

Thuốc hãm: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 5 - 10g, hãm với nước sôi như hãm chè, uống làm nhiều lần trong ngày.

Viện Y học quân sự đã dùng viên bột rễ Đinh lăng cho bộ đội tập luyện hành quân. Kết quả cho thấy khả năng chịu đựng và sức dẻo dai của họ được tăng lên rõ rệt. Các nhà khoa học Việt Nam và Nga cũng nhận thấy rễ Đinh lăng có tác dụng tốt đối với các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập.

Ngoài ra, theo Y học cổ truyền, Hải Thượng Lãn Ông đã dùng rễ Đinh lăng sao vàng, sắc cho phụ nữ uống sau khi đẻ để chống bệnh đau dạ con và làm tăng tiết sữa.

Dùng rễ Đinh lăng liều cao sẽ thấy hiện tượng say, mệt mỏi. Lá Đinh lăng được dùng theo kinh nghiệm dân gian để tránh bệnh kinh giật cho trẻ em. Lấy cả lá non và lá già phi khô đem lót gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân và cành Đinh lăng sắc uống với liều 20 - 30g, chữa đau lưng, mỏi gối tê thấp. Dùng riêng hoặc phối hợp với rễ cây Xấu hổ, Cúc tần, Bưởi bung, Cam thảo dây.

Đinh lăng còn được dùng chữa ban sởi, ho ra máu, kiết lỵ. Phối hợp với Sữa ong chúa là thuốc bổ rất tốt.
Chú ý: Tránh nhầm với cây Đinh lăng lá tròn (Polyscias balfourianaBailey, Đinh lăng lá to hay Đinh lăng lá ráng (Polysciasfilicifolia (Merr)Baill, Đinh lăng trổ hay Đinh lăng viền bạc (Polyscias guilfoylei Baill), Đinh lăng đĩa (Nothopanax scutellarius (Burm.f.) Merr., Đinh lăng răng (Polyscias serrata Bail) và loài Polyscias sambucifolia (Sieber) Harms. Những loài này không dùng làm thuốc.

Văn Vũ (CTQ số 21)

Đinh lăng một cây thuốc quý


Lá chét có cuống gầy dài 3-10mm, phiến lá chét có răng cưa không đều, lá có mùi thơm. Cụm hoa hình chùy ngắn 7-18mm gồm nhiều tán, mang nhiều hoa nhỏ.
Đinh lăng là cây được trồng phổ biến ở khắp nước ta. Trong dược điển cây chưa được dùng làm thuốc, nhưng khoảng 50 năm lại đây nhiều nghiên cứu về đinh lăng ở Việt Nam và trên thế giới được công bố và người ta bắt đầu khai thác và dùng đinh lăng làm thuốc bằng cách đào lấy rễ lớn, rửa sạch đất cát, phơi hoặc sấy khô dùng như nhân sâm. Trong đinh lăng có các alcaloit, glucozit, saponin, flavonoit, tanin, vitamin B1, các axit amin trong đó có lyzin, xystei và methionin là những axit amin không thể thay thế được. Các nhà dược lý, dược liệu và giải phẫu bệnh lý thuộc Viên Y học Quân sự Việt Nam từng nghiên cứu về đinh lăng và kết luận: nước sắc rễ đinh lăng giúp tăng sức đề kháng, cho thấy rõ dẻo dai của cơ thể và có tác dụng như nhân sâm. Tác giả Ngô Ứng Long và Xa-va-ép (Liên Xô cũ) từng có công trình về đinh lăng và cho thấy rõ tác dụng đối với các nhà du hành vũ trụ khi tập luyện trong tư thế tĩnh, đầu dốc ngược... Đặc biệt viên bột rễ đinh lăng dùng cho bộ đội, vận động viên thể dục, thể thao đều cho kết quả khả quan trong các nghiệm pháp gắng sức. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu dược lý, Viện Y học Quân sự Việt Nam đã thí nghiệm trên người với liều 0,23-0,50g bột đinh lăng một ngày dưới dạng thuốc sắc hay thuốc ngâm rượu nhẹ độ (300) giúp tăng sức dẻo dai của cơ thể rõ rệt. Trong dân gian, ngoài công dụng ăn gỏi cá, nhiều nơi dùng đinh lăng chữa ho, thông tiểu, thông sữa, kiết lỵ nặng. Tại Ấn Độ đinh lăng dùng làm thuốc chữa sốt, làm săn da. Một số đơn thuốc có đinh lăng thường dùng: Chữa mỏi mệt, biếng hoạt động: Đinh lăng (rễ) phơi khô, thái mỏng 0,5g thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2 hay 3 lần uống trong ngày. Thông tia sữa, căng vú sữa: Rễ cây đinh lăng 30-40g, thêm 500ml nước sắc còn 250ml, uống lúc nóng liền 2-3 ngày. Chữa vết thương: Giã nát lá đinh lăng đắp lên vùng bị tổn thương.