Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

NGÀY 8/3/2013


Lịch sử ngày 8/3

Ngày 8/3 là cả một câu chuyện lịch sử dài về cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng và hạnh phúc cho người nữ của nhiều nhóm phụ nữ trên toàn thế giới. Chính phụ nữ là những người đã khai sinh nên ngày 8/3 lịch sử. Một thế kỷ trôi qua, để mỗi năm có một ngày ưu ái dành cho người nữ, thì đã có không ít máu và nước mắt đổ xuống trong quá khứ.

• Ngày 08-03-1857, tại Thành phố New York, công nhân ngành dệt chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ: 12 giờ làm việc mỗi ngày. Hai năm sau, năm 1859, cũng vào tháng 3, công đoàn đầu tiên do các nữ công nhân người Mỹ trong hãng dệt thành lập đã giành được một số quyền lợi trong việc cải thiện đời sống cho công nhân

• 51 năm sau, ngày 08-03-1908, 15.000 phụ nữ diễn hành trên các đường phố New York để đòi được giảm giờ làm việc, tăng lương và hủy bỏ tình trạng lao động trẻ em, với khẩu hiệu "Bánh mì và Hoa hồng" (Bread and Roses). Bánh mì tượng trưng cho bảo đảm kinh tế gia đình, hoa hồng tượng trưng cho đời sống tốt đẹp hơn. Một năm sau đó, ngày 28 tháng 2 năm 1909, Đảng Xã hội Mỹ công nhận và tuyên bố là Ngày Quốc tế Phụ nữ.

• Trong Hội nghị phụ nữ Quốc tế lần thứ II (khối Xã hội chủ nghĩa) được tổ chức ngày 08-03-1910, 100 nữ đại biểu thuộc 17 nước đã lên tiếng đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Chủ tịch là Clara Zetkin, một phụ nữ Đức, đã đề nghị chọn một ngày để toàn thế giới tri ân những người nữ đã đấu tranh cho nhân quyền và nhân phẩm của nữ giới trên toàn cầu. Hội nghị đã chọn ngày 8 tháng 3 làm Ngày Quốc tế Phụ nữ.

• Ngày 25-03-1911, 145 nữ công nhân của hãng Triangle Shirtwaist Company tại Thành phố New York, phần lớn là người di dân Ái Nhĩ Lan và người Do Thái đã chết thảm trong một vụ cháy xưởng dệt. Họ không thể thoát thân được vì cửa xưởng đã bị khóa chặt, để công nhân không được ra ngoài trước khi hết giờ làm việc. Có khoảng 80.000 người diễn hành trên các đường phố đễ đưa tang 145 nạn nhân chết cháy. Sự kiện đau lòng này đã thúc đẩy cho việc sửa đổi luật lệ lao động thời bấy giờ.

• Năm 1912, 14.000 công nhân hãng dệt đình công và la lớn "Better to starve fighting than starve working" (Chết đói vì chiến đấu hơn là chết đói vì làm việc). Các nữ công nhân đã đồng lòng đình công 3 tháng.

• Năm 1912, sự can đảm đình công để đòi tôn trọng nhân phẩm và quyền sống tốt hơn của 14.000 nữ công nhân tại Lawrence, Massachusetts đã gây cảm hứng cho bài thơ Bread and Roses của nhà thơ người Mỹ, James Oppenheim (1882-1932). Bài hát này thường được cất lên trong ngày Quốc tế Phụ nữ cùng với bài Happy Women’ Day

• Ngày 8 tháng 3 năm 1914: Phụ nữ Đức đòi quyền bầu cử, nhưng cuộc đấu tranh của họ phải kéo dài hơn 4 năm. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1918, quyền lợi công dân chính đáng và bình đẳng của họ mới được chính phủ chấp thuận..

• Ngày 23 tháng 2 năm 1917 theo lịch Nga, nhằm ngày 8 tháng 3 dương lịch, các nữ công nhân người Nga đã xuống đường biểu tình, đình công đòi bánh mì và đòi phóng thích chồng con của họ - những người trở về từ chiến trận. Cuộc đình công này đã khiến Sa hoàng Nicolas II phải thoái vị và góp phần rất lớn vào cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga.

• Ngày 21 tháng 4 năm 1944, Quốc hội Pháp chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử, ngày 20 tháng 4 năm 1945, cách một thế kỷ so với thời điểm nam giới được quyền bầu cử (08-03-1848), phụ nữ Pháp được thực hiện quyền công dân, bỏ phiếu bầu hội đồng thành phố.

• Từ năm 1950 tại Việt Nam, mỗi năm vào ngày mùng 6 tháng 2 âm lịch đều có tổ chức ngày lễ Hai Bà Trưng tại Sài Gòn, và sau đó đã dùng ngày lễ này làm ngày Phụ nữ. Hàng năm, một nữ sinh trường Trưng Vương và một nữ sinh trường Gia Long được chọn để đóng vai Hai Bà Trưng ngồi trên bành voi trong dịp cử hành lễ.

• Năm 1971, Thụy Sĩ chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ.

• Ngày 8 tháng 3 năm 1975, Liên Hiệp Quốc bắt đầu chú ý và tổ chức ngày Quốc tế Phụ nữ.

• Năm 1977, nghĩa là hai năm sau, Liên Hiệp Quốc quyết định mời các nước dành một ngày để nói lên quyền lợi của người phụ nữ và hòa bình thế giới. Và ngày 8 tháng 3 được chọn để trở thành ngày lễ chung cho người nữ ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới.

Trong bài “Vai trò và sứ mệnh của phụ nữ trong xã hội và giáo hội” hôm nay, tôi xin chia sẻ và trích dẫn nhiều từ kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Người phụ nữ VN đã đi vào huyền thoại và trở thành bất hủ trong văn học. Ca dao với muôn màu muôn sắc đã vẽ lên bức tranh trung thực, phản ánh đúng bản chất của xã hội, ghi nhận những tâm tư tình cảm trong sáng, giản dị, phản chiếu gương hy sinh, sự cần lao, ý chí đấu tranh quyết liệt của dân tộc và những khổ đau của thân phận người phụ nữ trong nhiều thời đại …..

Nhiều người, nhất là giới phụ nữ trí thức, khi nhắc đến ngày 8/3 liền gợi lên trong tâm trí họ những bất công, bất bình đẳng về mặt thể chất tinh thần và tình cảm, mà PN đã và đang phải gánh chịu từ trong gia đình đến ngoài xã hội và cả trong giáo hội. Còn tôi, tôi chỉ muốn gợi lên những nét đẹp, gia tăng những tích cực trong cuộc đời, hy vọng sẽ giảm được tiêu cực và hết lòng mong mỏi cuộc sống của chị em phụ nữ mỗi ngày luôn được yêu thương, trân trọng và hạnh phúc hơn.

Đã từ lâu, người phụ nữ trở thành nguồn cảm hứng phong phú, bất tận cho văn học và nghệ thuật. Người phụ nữ không chỉ đại diện cho cái đẹp, không chỉ là nhân tố cho hạnh phúc của trái tim, của bếp lửa gia đình, của những tình cảm tô đậm cho cuộc đời thêm ý nghĩa mà còn là đối tượng tập trung nhiều vấn đề trong nhiều thời đại xã hội khác nhau. Có người cho rắng: “Không có người phụ nữ thì không có văn học và nghệ thuật, và nếu không có bóng dáng người phụ nữ trong tác phẩm, thì tác phẩm ấy vô cùng buồn tẻ và đơn điệu”

I. VAI TRÒ VÀ SỨ MỆNH CỦA PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH

1. Tấm lòng hiếu thảo của người phụ nữ

Từ ngàn xưa, thảo kính cha mẹ luôn được xem là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người, là một yếu tố phải tuân giữ trong đạo làm người. Người Việt nam chúng ta có nhiều nghi lễ để bày tỏ lòng biết ơn thảo kính đối với Cha mẹ, kính nhớ cội nguồn tổ tiên. Đặc biệt người phụ nữ VN luôn chịu thương, chịu khó, mang nặng tình cảm, gắn bó với gia đình thể hiện qua tâm tư và những hành động cụ thể:

a. Biết rõ công ơn của cha mẹ

Người phụ nữ mang trong lòng một trái tim rất nhạy cảm, nên họ thường ý thức rõ công ơn sinh thành của mẹ cha.

“Nuôi con mới biết sự tình, cảm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa”. Từ khi đứa con thụ thai trong lòng cho tới khi sinh con, người mẹ đã trải qua biết bao cực nhọc, lo âu cho từng miếng ăn giấc ngủ của đứa con. Con gái thường gần gũi với mẹ nên hiểu rõ và khắc ghi trong tâm những nỗi khổ cực ấy:

“Cha mẹ trọng quá ngọc vàng
Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn”
“Bao giờ cá chép hóa rồng
Đền ơn Cha mẹ ẵm bồng khi xưa”


Hay:

Ơn Cha nặng lắm cha ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang


Với ý thức nhớ ơn sinh thành và dưỡng dục của Cha mẹ, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh, gánh vác công việc để phụng dưỡng, báo hiếu song thân.

b. Làm lụng tảo tần để nuôi cha mẹ

Con người cần lao động để tồn tại và tiến hoá. Đối với người phụ nữ, sự gánh vác tảo tần, lo toan chén cơm manh áo không chỉ có giá trị về lao động mà còn mang một ý nghĩa cao đẹp về tấm lòng thảo hiếu đối với mẹ cha:

“Khó nghèo đòn gánh liền vai
Bán buôn nuôi mẹ, giàu ai mặc giàu”
“Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa”


c. Hy sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu

Bất kỳ người phụ nữ nào dù đẹp hay xấu, Tạo Hóa cũng đặt để trong lòng họ niềm khát khao về một mái ấm gia đình cho riêng mình và lòng khao khát yêu và được yêu. Thế nhưng, người con gái giàu lòng thảo hiếu lại sẵn sàng kềm chế hay từ bỏ những khát vọng chính đáng ấy, để báo ơn Cha mẹ bằng những hành động rất cụ thể đời thường:

“Mâm cơm em dọn, bát đầy em bưng”
“Em nguyện ở vậy không chồng
Lo nuôi cha mẹ hết lòng đạo con”


Họ nghĩ đến báo hiếu Đấng Sinh Thành trước khi nghĩ đến tình cảm và hạnh phúc riêng tư, vì thế người con gái đã nhắn nhủ với người yêu:

“Khoan khoan đợi với em cùng
Công ơn phụ mẫu em chưa có đến”


Cũng chính vì thế mà nhạc sĩ Trần Tiến đã sáng tác bài hát rất cảm động mang tên “Chị Tôi”. Xin mời mọi người cùng thưởng thức qua giọng hát của Ca sĩ Thanh Sử.

Trần Thu Hà – Chị Tôi 2 (http://www.youtube.com/watch?v=mJAiLj6AJ5w)

Và khi đã lấy chồng, lòng người phụ nữ luôn đau đáu nhớ về cha mẹ, lo lắng không biết “gối loan ai đỡ, kỷ trà ai dâng”. Họ xót xa vì không được gần kề, chăm sóc cho cha già mẹ yếu để rồi “trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Khi có ai về quê nhà, họ vội gởi vài quả chuối, buồng cau gối ghém ân tình và lòng nhớ thương trong đó:

“Ai về tôi gởi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy”
“Ai về tôi gởi đôi giày
Phòng khi mưa nắng cho thầy mẹ đi”


Là người con trong gia đình, người phụ nữ cầu mong cho cha mẹ sống đời với mình để khuyên răn dạy dỗ, để làm chỗ dựa tinh thần và để mình có cơ hội phụng dưỡng mẹ cha:

“Mỗi đêm thắp một nén hương
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Người còn thì của cũng còn
Để người ban bảo vuông tròn nhân duyên”


2. Tấm lòng của người phụ nữ đối với chồng con

Người phụ nữ VN vốn được xem là người thủy chung son sắt, hết lòng vì chồng vì con và lấy hạnh phúc của gia đình làm hạnh phúc của riêng mình. Ca dao dân ca đã ghi lại những hình ảnh của ngưới phụ nữ đầy yêu thương đối với chồng, đầy tình mẫu tử đối với con cái. Tất cả được thể hiện qua:

a. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ

Một trong những phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống của người phụ nữ VN là một lòng thủy chung, gắn bó và yêu thương chồng:

“Yêu anh cốt rũ xương mòn,
Yêu Anh đến thác vẫn còn yêu anh”


Keo sơn khắng khit trong tình nghĩa vợ chồng, nên người phụ nữ không dễ thay lòng đổi dạ:“dù cho nghiêng núi cạn sông chẳng rời” và “sang không phụ nghĩa, nghèo không phụ tình”. Họ đặt tất cả tâm tư nguyện vọng, tình thương và chính mạng sống mình cho việc vun đắp hạnh phúc gia đình, chỉ biết có chồng con:

“Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người”
“Chồng người võng ngựa người yêu
Chồng em khố bện, em chiều em thương”


b. Tảo tần hy sinh chấp nhận mọi gian khổ vì yêu thương chồng

“Qua đồng ghé nón thăm đồng
Đồng bao nhiêu lúa thương chồng bấy nhiêu”

Bởi vì:

“Lòng em một mực thương chàng
Dù đá có nát dù vàng có phai”
“Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông lý, nấu chè hạt sen


Chỉ có tấm lòng yêu thương chân thực vô bờ bến, tấm lòng quảng đại vị tha mới khiến cho người phụ nữ vượt qua mọi gian khổ, chia sẻ gánh nặng với chồng:

“Đói no em chịu với chàng
Xuống sông, ra biển, lên ngàn cũng theo”


Với những chăm sóc rất tinh tế và kín đáo, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh miễn sao chồng được hạnh phúc và khỏe mạnh:

“Miếng nạc thời để phần chồng
Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng con ăn”


c. Người phụ nữ đóng góp cho sự thành đạt của chồng

Lịch sử cho thấy người PN VN không chỉ gánh vác núi công việc không tên trong gia đình, mà còn chăm lo công việc đồng áng, làng xã… mong sao cho chồng được thành đạt:

“Theo chàng em quyết từ đây
Nâng khăn sửa túi, ra tay giúp mình
Sớm hôm trong chốn gia đình
Tề gia nội trợ xin mình mặc em
Việc ngoài chàng gắng cho nên
Học hành đèn sách đua chen với đời
Vụng hèn phận thiếp cũng thời thơm lây”


Người chồng thành đạt, trở về về vinh quy bái tổ, một bước hai bước lên kiệu, thăng quan tiến chức, hữu dụng cho đời…Tất cả đều nhờ một phần đóng góp to lớn của người phụ nữ đứng phía sau họ. Hay nói cách khác, không có phụ nữ, thì người đàn ông khó có thể thành đạt một cách mỹ mãn trên đường đời.

Đối với người xa xứ, hình ảnh người mẹ, người vợ gắn liền với hình ảnh của quê hương đất nước. Sự gắn kết đó cũng tạo nơi tâm trí họ tình cảm dân tộc và những hình ảnh tích cực về một nơi chốn không thể phôi pha:

-“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai giãi nắng dầm sương
Nhớ tát nước bên đường hôm nao”


d. Giáo dục con cái

Trách nhiệm thiêng liêng của các bà mẹ Việt Nam nuôi dạy con cái từ tuổi bé thơ đến lúc trưởng thành, đã được xã hội ta đánh giá cao từ ngàn xưa đến nay: “cha sinh không bằng mẹ dưỡng”. Mẹ mang con trong dạ 9 tháng 10 ngày, nuôi con bằng dòng sữa yêu thương, ru con ngủ bằng những điệu hát ầu ơ,….Tiếng ru của mẹ đi vào giấc ngủ, động lại sâu lắng trong tiềm thức của con. Mẹ cho con những bài học đầu đời và thứ tình mẫu tử thiêng liêng để con biết kính trọng ông bà tổ tiên; để con biết yêu đất nước quê hương, thương anh em đồng loại; để mai đây khôn lớn và bay xa, con vẫn nhớ mãi một nơi chốn để quay về.

Uống nước phải nhớ đến nhớ đến nguồn
Được ăn quả chín nhớ ơn người trồng


Mẹ dạy con phải yêu thương đoàn kết:

Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”,
“Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau


Mẹ dạy con nhân hòa với mọi người. Đó là cái gốc của đạo lý làm người, mà người mẹ mong muốn con phải sống trong suốt cuộc đời:

“Ra đi mẹ có dặn rằng
Ai hơn ta nhịn, ai bằng ta kiêng
Nhơn hòa ta để đầu tiên
Thì ta mới khỏi lụy phiền về sau”


Mẹ dạy con phong cách sống của người Việt Nam:

“Thà chết trong còn hơn sống đục”

Mẹ dạy con phải yêu quý lao động như lẽ sống ở đời:

“Tay làm, hàm nhai, tay quai miệng trễ”

Lướt qua một vài chấm phá trên, cho thấy trách nhiệm của các bà mẹ VN trong việc nuôi dạy con cái, được xã hội nhìn nhận và đánh giá rất cao. Câu “con dại cái mang” hay “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” cũng một phần nói lên con cái nên người hay không là lệ thuộc nhiều vào sự giáo dục của phụ nữ. Với trách nhiệm giáo dục cao cả ấy, người phụ nữ đã góp phần đào luyện những con người Việt Nam với những bản sắc văn hóa qua các thế hệ.

Gia đình là cái nôi của giáo dục, là nơi đầu tiên hình thành nhân cách của thế hệ tương lai. Một bà mẹ tốt là mối lợi cho gia đình và xã hội. Chính vì thế, người ta thường quan tâm đến sự thăng tiến của nữ giới trong các dự án giúp các nước chậm phát triển thoát khỏi đói nghèo. Đây là một sự đầu từ mang tính chất dài hạn cho sự phát triển của đất nước và nhân loại

II. VAI TRÒ VÀ SỨ MỆNH CỦA PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI

Từ khi Vua Hùng dựng nước và giữ nước, qua nhiều quốc biến, lịch sử hãy còn ghi dấu về nhân tính người phụ nữ VN thông minh, sáng tạo, cần cù lao động, dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm……. Qua chặng đường bốn ngàn năm hào hùng dân tộc, hình ảnh người phụ nữ VN đã có một chỗ đứng cao trọng trong nền văn học dân gian và được lưu truyền mãi cho thế hệ mai sau: Mẹ Âu Cơ đưa các con đi mở nước, dạy dân dựng làng; bà mẹ quê mùa kiên trì nuôi cậu bé Gióng “chậm lớn, chậm đi” và giúp con vững vàng trên lưng ngựa sắt đánh đuổi bạo thù; Nàng Quế Hoa, dùng đá làm vũ khí, tung hoành giữa đám giặc Ân...

Nguồn tư liệu khảo cổ học cũng bảo tồn những hình tượng thật về người phụ nữ “uy nghi chống nạnh trên chuôi kiếm” hoặc “nhịp nhàng giã cối, uyển chuyển đánh trống đồng”. Hình ảnh nổi bật về người phụ nữ Việt Nam cổ truyền là người nữ sĩ đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Sử thi phản ánh không khí anh hùng ca về những người phụ nữ can trường trong các cuộc đấu tranh, khởi nghĩa vũ trang chống xâm lược thời kỳ Bắc Thuộc và các thời kỳ khác: Hai Bà Trưng- dũng mãnh, hiên ngang trên bành voi; Bà Triệu -đánh đuổi quân Ngô; Thái hậu Dương Vân Nga – người anh thư đã tự tay tháo long bào, hy sinh danh tiếng và quyền lợi riêng tư cho sự tồn vong của đất nước; Ỷ Lan nguyên phi- đảm đang, chăm lo quốc sự, làm an lòng Vua Lý Thánh Tông đang thân chinh đánh giặc; đô đốc Bùi Thị Xuân – người nữ Bình Định kiên cường trong cuộc chiến chống quân Nguyễn...

Lịch sử dân tộc đã phải dành đến một phần ba thời gian cho 24 cuộc chiến tranh giữ nước vi quy mô cả nước và hàng trăm cuộc khởi nghĩa để giành độc lập, sử sách đã tốn nhiều giấy mực để khắc nét về người nữ VN hào hùng trên chiến tuyến:

Trên đất nước nghìn năm chảy máu,
Nghìn năm người con gái vẫn cầm gươm


Trong thời đại phong kiến, chế độ đa thê đã tước đoạt của người phụ nữ niềm hạnh phúc chính đáng về một gia đình trọn vẹn, đồng thời hạ thấp nhân phẩm của họ trong gia đình và xã hội. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã tố cáo chế độ hôn nhân phong kiến bất công, bằng thái độ rõ ràng, dứt khoát trong lời thơ sau:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công


                                                                                                    Đình Huy TH Trần Phú st